Author: admin

CategoriesCơ sở Hà Nội

Liệu trình Sen Bách Diệp

Liệu trình Sen Bách Diệp sẽ được thực hiện trong vòng 2h15 phút. Các bước trong liệu trình này sẽ được thực hiện trong phòng Bách Diệp tại tầng 12.

Liệu trình Sen Bách Diệp bao gồm các bước sau:

Bước 1: Tắm tráng, làm sạch cơ thể

Bước 1 sẽ được thực hiện trong khoảng thời gian từ 7 – 10 phút. Sau khi thực hiện, lớp mồ hôi, da chết trên cơ thể sẽ được làm sạch đáng kể; lỗ chân lông giãn nở để phục vụ cho các liệu trình trị liệu tiếp theo.

Bước 2: Xông đá muối Himalaya

Quá trình xông đá muối Himalaya sẽ kéo dài từ 7 – 10 phút. Việc xông đá muối sẽ mang lại những lợi ích tuyệt vời như thải độc tố, thanh lọc cơ thể qua tuyến mồ hôi; điều chỉnh huyết áp; xua tan mệt mỏi, giảm căng thẳng; hỗ trợ chữa viêm xoang và cân bằng độ Ph của cơ thể.

 

Bước 3: Ngâm bồn gỗ và bồn sục tại phòng tập thể

Quá trình tắm bồn gỗ cũng kéo dài từ 5 – 7 phút. Khi tắm bồn gỗ, các tinh chất từ thuốc sẽ ngấm qua da trị bệnh từ bên ngoài với hơi nóng của nước. Đồng thời mùi hương của thảo dược sẽ tác động lên khứu giác mang lại tinh thần sảng khoái, xua tan căng thẳng, mệt mỏi.

Sau khi tắm bồn gỗ, bạn sẽ được chuyển đến ngâm mình trong bồn sục thuốc. Quá trình này cũng sẽ diễn ra trong vòng 5 – 7 phút.

Bước 4: Tẩy da chết

Quý khách sẽ được tẩy da chết toàn thân bằng cám gạo + sữa tươi không đường + mật ong.

Bước 5: Xông hơi ướt, xông hơi khô

Quá trình xông hơi ướt, xông hơi khô sẽ diễn ra trong vòng từ 10 – 14 phút (5 – 7 phút xông hơi khô; 5 – 7 phút xông hơi ướt). Đặc biệt trong quá trình xông hơi ướt, Quý khách hàng sẽ được ngâm chân nước gừng để tăng hiệu quả thải độc của cơ thể. Quá trình xông hơi sẽ làm cho các chất cặn bã trong cơ thể được đẩy ra ngoài thông qua lỗ chân lông, mang lại cảm giác khoan khoái, nhẹ nhàng cho cơ thể.

Bước 6: Tắm tia

Thời gian tắm tia sẽ rơi vào khoảng 3 – 5 phút. Tác dụng của tắm tia giúp làm giảm các cơn đau, làm sạch da, trơn da và mịn da.

Bước 7: Xoa bóp bấm huyệt cùng kỹ thuật viên kinh nghiệm tại phòng tập thể

Bước 8: Thực đơn gồm những món ăn có lợi cho sức khỏe

CategoriesCơ sở Hà Nội

Quy trình trị liệu của Sen1992

QUY TRÌNH THĂM KHÁM

Phòng Chăm Sóc sức khỏe: Các bác sĩ bắt mạch, phân tích thể trạng cho từng người, tư vấn cách chăm sóc và trị liệu cho khách một cách phù hợp nhất, đồng thời dùng những thiết bị máy móc có phần mềm hiện đại để kiểm tra hiện trạng cơ thể như: Máy Phân tích da, Máy Đo huyết áp, Máy Quét chỉ số cơ thể,…

Đưa ra phương pháp chẩn trị hiệu quả nhất cho khách hàng. Khách hàng còn được hướng dẫn tập những động tác rèn luyện thể chất là những bài tập của Khí công Việt Nam do các chuyên gia Đông Y nghiên cứu cho khách tự chữa bệnh nhằm nâng cao thể lực.

KHÔNG GIAN THIỀN

Đây gọi là “Vườn thảo dược” được nuôi dưỡng bằng nguồn oxy sạch tạo nên không khí tinh khiết và trong lành tuyệt đối, trong vườn trồng nhiều loài cây thảo dược truyền thống, mỗi cây đều có những hương vị đặc trưng, có sự giao cảm của các loài cây lá. Trong không gian tĩnh mịch có âm thanh của nhạc Thiền du dương để khách thiền tâm an khí, trải nghiệm những bài của thiên nhiên, giúp cơ thể giảm bớt hoạt động trao đổi chất, thân nhiệt,
nhịp thở tiết kiệm và phục hồi năng lượng.

QUY TRÌNH Ủ THẢO DƯỢC BẰNG XUỒNG CỎ

“Xuồng cỏ, chất liệu bằng gỗ thông Bắc Âu đã qua công nghệ ép nhiệt, loại bỏ chất giàu và được hấp, nhuộm hương liệu thuốc”. Cỏ thơm, hái từ vùng núi Tây Bắc, đã hong phơi qua 8 lần nắng, gió, trộn với 18 vị thuốc Nam, xao vàng, hạ thổ, đắp kín toàn thân cho khách để ủ ấm huyệt đạo; bồi bổ chân kinh; khai thông tuần hoàn máu; thư cân hoạt lạc làm cho quý khách nhẹ nhõm cơ thể; hoạt bát tinh thần và thoải mái hơn.

QUY TRÌNH XÔNG HƠI LÁ THUỐC (xông âm hai cấp nhiệt)

Những cây thuốc lá Nam y truyền thống được đưa vào hệ thống nhiệt, làm nóng, xông lên hơi thuốc tỏa khắp buồng kín (hơi thuốc dần dần ấm nóng từ trong cơ thể nóng ra, đi xuyên qua người), tác động sâu vào các mô mỡ, làm thông thoáng lỗ chân lông, thẩm thấu thảo dược vào tận nội tạng,  đôn đốc cơ thể tự thực hiện quy trình trao đổi chất, giúp tẩy độc nhanh”, hạ sốt, giải cảm chống đau đầu mỏi mệt.

QUY TRÌNH XÔNG ĐÁ MUỐI HIMALAYA 

Những phiến đá muối được gắn trên tường gỗ, phát ra những tia sáng thuốc, trong Đông Y gọi là Đá thuốc Himalaya, đá muối xuất xứ từ Pakistan, khai thác ở mỏ muối Khiu ra – gần dãy núi Himalaya. Đá muối liên tục sản sinh ra các vitamin tự nhiên, can thiệp tích cực đến thể chất con người.

Những tia Hồng ngoại, tương tác với nhiệt cộng hưởng, phát ra những sắc màu ion âm, thẩm thấu, xuyên qua da người khoảng 4- 5 cm, làm giãn mạch máu, lưu thông khí huyết, tăng nhẹ thân nhiệt từ 1 đến 3 “độ F”, đồng thời sản xuất ra các tế bào bạch cầu, cải thiện hệ thống miễn dịch”, làm cơ thể chuẩn hóa được lượng nước; cân bằng nồng độ axit dư thừa của tế bào não; ổn định lượng đường trong máu; giảm tốc độ lão hóa; hấp thụ tốt các hạt thức ăn trong ruột giảm được một số bệnh như: chuột rút; mỡ máu; mắt mờ; tê thấp; mất ngủ

QUY TRÌNH ĐẮP MẶT – GỘI ĐẦU – CÔNG NGHỆ NHẬT BẢN

GỘI ĐẦU SÔ ĐA

Gội đầu Sô-Đa, một loại dược liệu quý, xuất xứ từ Nhật Bản, được pha chế theo công thức của Hương Sen, nó sẽ hấp thụ hết lượng dầu thừa, làm tóc không bết dính, loại bỏ gầu và mùi hôi của tóc, nó bảo vệ tóc và da đầu luôn khoẻ mạnh, suôn mượt, chống được những hư tổn do tác động môi trường…

QUY TRÌNH MATXA – BẤM HUYỆT

Bấm huyệt, mát xa một phương pháp Y học, làm phục hồi trạng thái tinh thần, tăng cường năng lượng, trẻ hóa cơ bắp, cân bằng trí não, chống trầm cảm, đó là những hiệu quả do tác động vào huyệt mà có như: huyệt Thần đình, là nơi chi phối thần kinh não, bấm sẽ hết đau đầu, đẩy được tà khí; huyệt Hợp cốc, có tác dụng ngăn chặn đục khí, cân đối thanh khí, làm dứt cơn choáng váng; huyệt Tam túc lý,sẽ làm hết mỏi gối, giúp khỏe chân và
đi bộ tốt hơn…

MATXA TRE – VẬT LÝ TRỊ LIỆU

Những thanh tre, chất liệu từ cây tren Nhật Bản được chế tác thành dụng cụ matxa. Hấp nhiệt nóng vào thanh tre rồi xoa với tinh dầu dừa và dược liệu, dùng lực vừa phải, lăn lên cơ thể làm dãn gân cốt, giải phóng những nhóm cơ căng cứng, như vùng đùi và bắp chân, làm thon, gọn thân hình cho phụ nữ, và rất thích hợp với đàn ông, những người thường xuyên tập thể thao, bê vác nặng hoặc mệt mỏi tích tụ kéo dài”. phương pháp còn rất mới trên thế giới, bắt đầu phổ biến tại các nước Đông Nam Á, đặc biệt là Hương Sen – Việt Nam.

QUY TRÌNH NGÂM BỒN SỤC THỦY LỰC

Một bồn nước ấm pha thuốc, trong bồn có 8 mạch ngầm liên tục phun và thổi nước, tác động vào người như “đấm bóp” và “matxa” vào cơ thể, thành phần nước gồm có lá thông, trần bì, ngải cứu cùng những bài thuốc bí truyền; nó làm săn chắc cơ thể, tiêu viêm, an thần, chữa bệnh ngoài da, khoa
học trị liệu gọi là Jacuzzi…

QUY TRÌNH TẮM THUỐC NGÂM BỒN GỖ

Bồn gỗ tròn nước ấm ngâm với lá thuốc Cao Đằng một loại lá trong Nam y cổ truyền cùng 12 vị thảo dược của người Giao Đỏ hái từ rừng sâu, nó giúp xua tan mệt mỏi, chống đau lưng, thần kinh tọa”. chữa được đau đầu, ngoại cảm; phong hàn; chống mỏi khớp, đau lưng cấp; vai, cổ gáy; tốt thần kinh tọa; thư giãn cơ bắp, phục hồi sinh lực”

CẮT TÓC LÀM MÓNG

Cuối phần trị liệu khách hàng sẽ được cắt tóc thời trang nam – nữ và sơn, sửa móng tay, cắt móng tay, nhặt da chết

CategoriesUncategorized

6 Tác dụng bất ngờ của ngâm chân thảo dược

Theo giới Y học, nước muối ấm, gừng, thảo dược được xem là thiện dược của đôi chân. Nó không những giúp bạn thư giãn, thoải mái mà còn có tác dụng chữa bệnh xương khớp rất tốt. Cùng điểm danh 6 công dụng bất ngờ khi sử dụng sản phẩm “Muối thảo dược ngâm chân” của S -Herb nhé!

1. Giảm đau do viêm khớp

Các cation (dương) và nation (âm) trong muối giúp cân bằng cơ thể, tác động trực tiếp đến các cơ xương khớp theo cơ chế “nóng giãn, lạnh co cục bộ” khi có sự hỗ trợ của nước ấm.Vì vậy, ngâm chân thường xuyên sẽ làm giảm triệu chứng đau nhức, các cơ khớp được thư giãn và mang lại cảm giác thoải mái hơn.

2. Giảm mệt mỏi

Những người hay mệt mỏi, uể oải thường xuyên ngâm chân bằng nước muối ấm hàng ngày sẽ giúp cải thiện tuần hoàn máu vùng chân, tinh thần thoải mái hơn rất nhiều.

3. Giảm mất ngủ

Ngâm nước muối vào mỗi tối trước khi đi ngủ sẽ giúp bạn có giấc ngủ sâu hơn, ngon hơn, không bị tỉnh giấc giữa chừng và cảm giác sảng khoái, thư thái vào buổi sáng hôm sau.

4. Làm ấm chân và cơ thể

Những người mắc chứng chân tay lạnh, đặc biệt trong mùa đông nên ngâm nước muối ấm mỗi ngày sẽ giúp khí huyết lưu thông, làm ấm cơ thể. Sau khi ngâm chân xong bạn nên lau khô và đi tất hay cuộn chân vào chăn để giữ ấm.

5. Trị bệnh ngoài da

Khi mắc các bệnh về da như nấm móng, nấm chân bạn nên ngâm chân bằng nước muối hàng ngày. Việc này sẽ giúp tẩy tế bào chết, làm sạch chân, kháng khuẩn và giúp đẩy lùi các bệnh da liễu.

6. Khử mùi hôi của chân

Ngoài việc giảm đau, mang lại cảm giác thoải mái, sảng khoái thì việc giúp khử mùi hôi chân cũng là một công dụng lớn của việc dùng nước muối ấm để ngâm chân.
Với sản phẩm “Muối thảo dược ngâm chân” của S -Herb bạn sẽ không còn lo lắng về những vấn đề về chân nữa. Cảm giác thư thái, đôi chân khỏe mạnh, cùng với những niềm vui sức khỏe sẽ về bên bạn
CategoriesUncategorized

Nước tắm mùi già XƯA tìm về miền ký ức

Vị Tết trong tôi là thứ gì đó không thể gọi thành tên.
Phải chăng đó là mùi bánh chưng, lá dong hoặc thịt mỡ, dưa hành?
Phải chăng là mùi hương trầm nghi ngút? Phải chăng là mùi bánh chưng thơm lừng?
Ký ức trong tôi mỗi dịp giao thừa là mùi nồi nước lá mùi già sả chanh thanh tịnh, an yên mẹ nấu vào ngày 30 Tết. Cành mùi già đó, mùi hương đó đã đi vào ký ức và những câu chuyện gợi nhớ. Với guồng quay tất bật và hiện đại của cuộc sống, nhiều người không thể tự tay nấu được những nồi nước tắm bằng mùi già và sả chanh. Thấu hiểu được điều đó, S – Herb đã giúp các chị em bận rộn tìm gặp được mùi thơm êm dịu và thân thuộc này qua sản phẩm “Nước tắm mùi già XƯA”.
Được chắt lọc từ tinh túy của những luống mùi già, sả, chanh…, nước tắm mùi già XƯA của S – Herb mang đến hương thơm nồng ấm, quen thuộc. Không chỉ có công dụng làm sạch cơ thể, lưu giữ mùi hương thơm lâu nước tắm mùi già XƯA còn giúp tinh thần được thư thái, sảng khoái nhờ tinh dầu mùi già và sả chanh.
Hướng dẫn sử dụng:
  • Ngâm tắm bằng chậu hoặc bồn: 3-4 nắp
  • Rửa mặt đầu năm mới: 1/2 nắp
  • Lau rửa bàn thờ gia đình: 2 nắp
  • Cho trực tiếp vào đèn xông tinh dầu để thư giãn, tận hưởng và khử mùi không gian gia đình.
  • Pha vào nước để lau sàn nhà, lau rửa nhà cửa. Sản phẩm này có khả năng khử mùi hôi phòng cực kỳ hiệu quả.
  • Tắm cho trẻ nhỏ để phòng cúm, tránh sởi

Nước tắm mùi già XƯA – Gói gọn hương vị ngày Tết

CategoriesUncategorized

Xịt phòng thơm mùi già XƯA lưu giữ kỷ niệm ngày tết tuổi thơ

Ngày ấy – những ngày giáp Tết…
Mẹ hay giục tôi dậy sớm theo mẹ đi chợ Tết. Cái chợ tẻo tèo ngày thường nay bỗng phổng phao như người thiếu nữ tuổi dậy thì. Hàng quán chạy dài ra tận chân con đê nhỏ. Vài nải chuối xanh, quả cau, chùm quất, mớ lá dong, lá trầu… thế cũng thành cái chợ ngày Tết.
Như nâng niu, như khẽ khàng, mẹ tôi bày ra tấm nilon nhỏ những bó mùi già, được nhổ từ mảnh vườn cuối nhà, rửa sạch và để ráo từ tối hôm qua. Lúc đó tôi còn nhỏ nên chẳng hiểu tại sao mẹ chỉ toàn bán mùi già đã trổ hoa và càng chẳng hiểu vì sao người ta lại xúm đông xúm đỏ để mua mấy mớ mùi già ấy. Không mặc cả, không kì kèo, họ mua ngay và nở nụ cười hạnh phúc. Tôi hỏi mẹ thì mẹ chỉ cười và mang tôi ra hàng tò he để lựa một con ưng ý rồi lại tất tả với mắm, muối, dưa, hành.
Lớn hơn một chút, tôi đã hiểu tại sao khi những chùm quất còn xanh màu, mẹ đã đem gói hạt mùi cất kỹ trên ránh bếp từ mùa trước, đem gieo và chờ đợi. Đến khi phất phơ những cánh đào hồng thì mấy luống mùi của mẹ cũng lặng lẽ nở hoa. Những khóm mùi có vị riêng, hương thơm đặc trưng toát lên sự thanh cao và mùi hương ngày Tết.
Không bỏ lỡ loài cây có mùi hương và công dụng đặc trưng này, S – Herb đã nghiên cứu gói ghém tất cả tinh túy cùng những ký ức về Tết Xưa vào trong sản phẩm “Xịt phòng thơm mùi già XƯA”.
Xịt phòng thơm mùi già XƯA có công dụng làm sạch, thanh lọc và khử trùng không gian sống. Đồng thời, giúp thư giãn tinh thần, kích thích ăn ngon miệng hơn nhờ hương thơm đặc trưng của mùi già.
Hướng dẫn sử dụng:
  • Lắc đều chai. Giữ thẳng chai và nhấn nút xịt dứt khoát để sương phun ra mịn và đều nhất.
  • Xịt vào các góc trong căn phòng khi muốn làm thơm phòng nhanh. Xịt tủ quần áo, tủ giầy, túi xách, ô tô … để làm thơm và kháng khuẩn.
  • Xịt nơi cao hương thơm sẽ tỏa nhanh hơn là xịt vùng thấp.
Điều chỉnh số lần xịt tùy ý để đạt được hương thơm như ý muốn.
Chỉ cần xịt nhẹ, bạn sẽ cảm nhận được hương thơm dịu êm, thanh tịnh và quen thuộc của mùi già len lỏi trong căn phòng của mình.
CategoriesUncategorized

Xà bông thơm mùi già XƯA đón xuân vàng tắm tất niên

Hàng năm, theo tục lệ Tết cổ truyền, người Việt thường nô nức đun nước lá mùi già để tắm trong ngày 30 Tết. Điều này đã trở thành một phong tục đẹp, vô cùng thiêng liêng và là nét văn hóa của người Việt không thể thiếu mỗi dịp Tết đến xuân về. 

Mọi người cho rằng hương thơm của lá mùi già ngày cuối năm giúp người ta tĩnh tâm sau bao mệt mỏi của cuộc sống mưu sinh. Hương thơm của loại cây thảo mộc này như gột rửa những điều đã cũ, những vướng mắc năm cũ trong lòng… để có một cơ thể sạch thơm nguyên vẹn sẵn sàng đón chào những điều tốt lành trong năm mới. Ngoài ra, hương thơm tự nhiên của mùi già còn là hương vị của sự sum vầy, hội ngộ, ấm áp của những ngày Tết đoàn viên.

Với guồng quay của công việc và cuộc sống hiện đại, nhiều người không thể tự nấu nồi nước mùi già để tắm mỗi ngày. Chính vì vậy, S – Herb đã giúp bạn tìm gặp hương thơm quen thuộc, mùi vị tình thân đó qua sản phẩm xà bông thơm mùi già xưa.

Với thành phần là tinh dầu mùi già nguyên chất, bột hạt mùi già và dầu dừa, xà bông thơm mùi già xưa không những giúp làm sạch cơ thể, kháng khuẩn mà còn hỗ trợ chức năng hệ hô hấp, tuần hoàn và giúp thải độc. 

Hướng dẫn sử dụng:

  • Dùng rửa mặt, tắm hoặc rửa tay đều được.
  • Làm ướt, tạo bọt và matxa lên vùng cần làm sạch
  • Cuối cùng, rửa lại với nước.
CategoriesUncategorized

Đánh bật đau cổ vai gáy bằng xoa bóp bấm huyệt sử dụng bộ đôi kem chuyên biệt đặc biệt

Đau mỏi vai gáy vốn là căn bệnh phổ biến ở mọi lứa tuổi, nghề nghiệp trong xã hội. Đặc biệt bệnh thường gặp nhiều hơn ở người trung niên – cao tuổi và người làm văn phòng do tính chất  ngồi làm việc liên tục, ngồi sai tư thế,  cơ thể nhiễm lạnh do sử dụng điều hòa…

Khi mắc phải đau cổ vai gáy người bệnh sẽ cảm thấy nhức mỏi vùng cổ, có khi cơn đau lan xuống cả vùng vai và cánh tay. Tình trạng này kéo dài vô cùng khó chịu và khiến người bệnh giảm hiệu quả công việc, chất lượng cuộc sống đi xuống.

Điều Trị Đau Mỏi Vai Gáy Theo Phương Pháp Dân Gian

Chữa đau mỏi vai gáy bằng phương pháp y học cổ truyền xoa bóp bấm huyệt kết hợp cùng  kem chuyên dụng là cách chữa đơn giản và hiệu quả được nhiều người bệnh tin tưởng và áp dụng mỗi khi cơn đau xuất hiện.

Bộ đôi Kem ngải diệp Hokila – kem gừng Vuua là sản phẩm bôi ngoài da, dành cho xoa bóp trị liệu, được đánh giá cao và góp phần tăng hiệu quả rõ nét cho liệu trình xoa bóp chữa đau cổ vai gáy. Người bệnh sẽ có những cảm nhận tích cực khi dùng kết hợp cả hai sản phẩm: Kem ngải diệp Hokila là kem bôi ban ngày và kem gừng VUUA dành cho xoa bóp buổi tối.

Hokila được chiết xuất 100% từ cây ngải diệp và các cây thảo dược tự nhiên của Việt Nam, khi kết hợp với xoa bóp sẽ giúp khí huyết lưu thông, tránh tắc nghẽn, “âm dương cân bằng”, chức năng các tạng phủ hoạt động điều hòa và cơ thể tự cân bằng sức khỏe.

 

Các biện pháp trị liệu kết hợp nhiều loại thảo dược quý mà Sen Tài Thu sử dụng trong điều trị chứng đau cơ xơ hóa đạt được hiệu quả cao.CategoriesTin tham khảo Tin tức

Điều trị hiệu quả triệu chứng đau cơ xơ hóa ở bệnh nhân từng mắc Covid

Một số người hồi phục sau khi nhiễm virus SARS-CoV-2 nhưng vẫn phải tiếp tục chiến đấu với các triệu chứng kéo dài, như tổn thương phổi, mệt mỏi, ho dai dẳng, suy nhược cơ thể,…Các biến chứng lâu dài vẫn là một thách thức không nhỏ đối với nhiều người và đau cơ xơ hóa là một trong những chứng bệnh đáng lo ngại.

Hơn 30% bệnh nhân bị đau cơ xơ hóa sau khi khỏi bệnh Covid – 19

Theo một nghiên cứu của Ý dựa trên một cuộc khảo sát trên Website, trong số 600 bệnh nhân, có khoảng 30,7% người được chẩn đoán đau cơ xơ hóa ở thời điểm trung bình 6 tháng sau khi điều trị COVID-19.

Các nhà nghiên cứu cho biết: “Trước số lượng lớn ca nhiễm virus SARS-CoV-2, có thể dự báo rằng các bác sĩ thấp khớp sẽ phải đối mặt với sự gia tăng mạnh mẽ số người mắc triệu chứng này.”

Đau cơ xơ hóa là một tình trạng đau mạn tính trong cơ, dây chằng, gân và các tổ chức phần mềm của cơ thể. 
Đau cơ xơ hóa là một tình trạng đau mạn tính trong cơ, dây chằng, gân và các tổ chức phần mềm của cơ thể.

Đối với những bệnh nhân COVID – 19 kéo dài, nhiều yếu tố có thể góp phần vào nguy cơ phát triển chứng đau cơ xơ hóa. Bệnh nhân béo phì, bệnh nhân phải chăm sóc đặc biệt hoặc được điều trị bằng liệu pháp oxy trong thời gian nhiễm COVID-19 sẽ có nguy cơ mắc đau cơ xơ hóa nhiều hơn.

Lương y Nguyễn Văn Bình thuộc Hội Đông y Thành phố Hà Nội cho biết: “Bệnh nhân mắc COVID-19 phần lớn bị ảnh hưởng đến hệ hô hấp (phổi). Trong Đông Y, phổi hay còn gọi là phế bị tổn thương sẽ hưởng tới lượng oxy trong máu, sự lưu thông máu tới các vùng trên cơ thể. Điều này dẫn đến việc máu không được cung cấp đủ đến các bộ phận trên cơ thể và sinh ra tình trạng đau nhức (các vùng cơ sẽ bị xơ hóa). Những triệu chứng này kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng đau mạn tính trong cơ, dây chằng, gân và các tổ chức phần mềm của cơ thể. Đau cơ xơ hoá thường kèm theo cảm giác mệt mỏi, mất ngủ, hoặc trầm cảm…”

Theo số liệu của Viện Quốc gia về viêm khớp, các bệnh cơ xương và da (NIAMS) phát hiện ra rằng khoảng 5 triệu người trưởng thành từ 18 tuổi trở lên ở Mỹ bị đau cơ xơ hóa và 80 –  90% bệnh nhân gặp tình trạng này là phụ nữ. Ở Việt Nam, chưa có số liệu thống kê cụ thể nhưng các chuyên gia y tế cho rằng tỷ lệ mắc chứng này ngày càng gia tăng ở người trẻ tuổi hoặc trung niên, những người làm việc văn phòng.

Các biện pháp giảm đau tự nhiên cho chứng đau cơ xơ hóa

Hiện nay, chưa có cách nào có thể chữa trị khỏi đau cơ xơ hóa. Thay vào đó, các phương pháp điều trị thường chỉ nhằm mục đích giảm nhẹ các triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Các phương pháp điều trị phổ biến gồm có: dùng thuốc, các biện pháp điều trị thay thế, thay đổi lối sống.

Theo Lương y Nguyễn Văn Bình thuộc Hội Đông y Thành phố Hà Nội, các phương pháp điều trị không dùng thuốc mà người bệnh có thể tham khảo như: vật lý trị liệu, vận động liệu pháp, nhiệt trị liệu (hỏa long liệu pháp), ủ xông thảo dược, thuỷ trị liệu (xông hơi, ngâm thuốc), xoa bóp, bấm huyệt, châm cứu,…đều có hiệu quả tốt trong điều trị giảm đau.

Các biện pháp trị liệu kết hợp nhiều loại thảo dược quý mà Sen Tài Thu sử dụng trong điều trị chứng đau cơ xơ hóa đạt được hiệu quả cao.
Các biện pháp trị liệu kết hợp nhiều loại thảo dược quý mà Sen Tài Thu sử dụng trong điều trị chứng đau cơ xơ hóa đạt được hiệu quả cao.

Tác dụng của của các biện pháp trên đã được chứng minh có tác dụng hữu ích đối với hệ hô hấp, tim mạch, lưu thông khí huyết, tán giãn cơ. Một nghiên cứu cho thấy nhiệt ấm, nhiệt ẩm được cung cấp bởi phòng xông thảo dược, có thể cải thiện tuần hoàn bằng cách làm giãn nở các mạch máu nhỏ hoặc mao mạch. Sau đó, có thể lưu thông máu một cách dễ dàng nhất và vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Liệu pháp phòng xông thảo dược cũng đã được chứng minh là làm giảm huyết áp và giữ cho tim khỏe mạnh hơn. Nó cũng có thể thúc đẩy quá trình chữa lành các cơ. Bên cạnh đó, thiền và khí công trong trạng thái thư thái không chỉ giúp cải thiện sức khỏe mà còn giúp chữa lành tâm trí và cải thiện khả năng tập trung. 

Lương Y Nguyễn Văn Bình đưa ra lời khuyên: “Để tình trạng bệnh được cải thiện tốt nhất, người bệnh cần lựa chọn những cơ sở trị liệu uy tín. Một trong số đó có thể kể đến như Sen Tài Thu. Tại đây, bệnh nhân sẽ được thăm khám, đưa ra liệu trình điều trị phù hợp với thể trạng của mình bởi đội ngũ y, bác sĩ giỏi, có chuyên môn cao cũng như được áp dụng đầy đủ liệu pháp xoa bóp trị liệu chuyên sâu dưới bàn tay điêu luyện và lành nghề của đội ngũ kỹ thuật viên được đào tạo bài bản, có chứng nhận của Bộ Y tế. Bên cạnh đó, Sen Tài Thu đã ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại bậc nhất trong quá trình trị liệu như: xông hơi công nghệ xông âm thải độc, xông xuồng cỏ thơm,…. kết hợp với các biện pháp trị liệu dùng thảo dược quý với công thức bí truyền ngàn năm. Quy trình cuối trong mỗi liệu trình trị liệu là thưởng thức các món ăn bài thuốc giàu dinh dưỡng, đồ uống trà thảo mộc nhằm hỗ trợ cơ thể phục hồi và cải thiện chứng bệnh đau cơ xơ hóa từ sâu bên trong.”


Mọi thông tin về SEN1992 xin vui lòng liên hệ:

SEN 1992

Địa chỉ trụ sở chính: Tầng 11, 12 toà nhà Bệnh viện Châm Cứu Trung Ương, 49 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội

Địa chỉ cơ sở 2: Tầng 4 khách sạn The Reed Ninh Bình, Đinh Điền, Đông Thành, TP Ninh Bình.

SĐT cơ sở Ninh Bình: 0229 356 3699

SĐT cơ sở Hà Nội: 84 24 3222 2386

Hotline: 090 6169926 

Email: [email protected]

Fanpage SEN 1992 NINH BÌNH: facebook.com/sen1992ninhbinh

Fanpage SEN 1992:  https://www.facebook.com/sen1992.com.vn/

CategoriesTin tham khảo Tin tức

Các loại thuốc điều trị và phòng ngừa COVID-19

Tải lượng vi-rút SARS-CoV-2 trong các chất bài tiết qua đường hô hấp tăng nhanh trong vài ngày trước và sau khi khởi phát các triệu chứng. Do quá trình nhân lên của vi-rút đặc biệt tích cực ở giai đoạn đầu của nhiễm SARS-CoV-2, người ta cho rằng việc kiểm soát quá trình nhân lên của vi-rút bằng các liệu pháp dựa trên kháng thể SARS-CoV-2 và các loại thuốc kháng vi-rút có thể có tác động lớn nhất trước khi vật chủ phát triển một đáp ứng miễn dịch hiệu quả, trong khi các chất điều biến miễn dịch có thể có hiệu quả cao hơn sau đó trong quá trình diễn biến bệnh khi trạng thái viêm tăng có thể chiếm ưu thế.

Tóm tắt về các loại thuốc

Một số loại thuốc đang được đánh giá để điều trị và dự phòng, nhưng tại thời điểm này chỉ một số ít thuốc không có hiệu quả lắm được chấp thuận hoặc được chứng minh một cách thuyết phục là có lợi.

Remdesivir

là loại thuốc kháng vi-rút duy nhất hiện được FDA chấp thuận để điều trị COVID-19(1). Tuy nhiên, remdesivir cần phải dùng theo đường tĩnh mạch mỗi ngày, làm hạn chế sử dụng thuốc này ở các cơ sở điều trị nội trú và chỉ thấy thuốc này đem lại lợi ích cho những bệnh nhân đã mắc bệnh đủ nặng để cần phải bổ sung oxy.

Đã phát hiện thấy các liệu pháp dựa trên kháng thể SARS-CoV-2 có lợi cho bệnh nhân ngoại trú ở giai đoạn đầu của quá trình nhiễm bệnh trong các nghiên cứu về kháng thể đơn dòng (Mabs) bamlanivimab (còn được gọi là LY-CoV555 và LY3819253, Eli Lilly) hoặc phối hợp 2 Mabs casirivimab cộng với imdevimab (còn được gọi là REGN-COV2, Regeneron). Cả hai sản phẩm Mab này, có thể sử dụng cho bệnh nhân ngoại trú bị COVID-19 thông qua Giấy phép Sử dụng Khẩn cấp (EUA), đã được chứng minh là làm giảm tải lượng vi-rút trong các chất bài tiết ở đường hô hấp, cải thiện các triệu chứng trên bệnh nhân ngoại trú có nguy cơ cao tiến triển bệnh, giảm số lần nằm viện và số lần đến khám ở phòng cấp cứu (2, 3).

Nhóm thuốc corticosteroid

Đặc biệt là dexamethasone, được dùng ở giai đoạn sau của quá trình bị COVID-19, khi đáp ứng miễn dịch/viêm tăng quá mức đối với nhiễm trùng chiếm ưu thế, đã được phát hiện là làm cải thiện khả năng sống sót trên những bệnh nhân nằm viện cần oxy bổ sung, với tác dụng lớn nhất đã được quan sát thấy trên những bệnh nhân cần phải thở máy.

Kháng thể đơn dòng

Mabs là các protein kháng thể được sản xuất trong phòng thí nghiệm được thiết kế để gắn kết với một vị trí kháng nguyên cụ thể. Mabs từ người là các kháng thể từ các loài không phải ở người có trình tự protein đã được sửa đổi để làm tăng tính tương đồng với các kháng thể được tạo ra một cách tự nhiên ở người, khiến cho các kháng thể này ít có khả năng bị hệ thống miễn dịch của cơ thể con người tiêu hủy hơn. Mabs đã được sử dụng thành công để điều trị các bệnh nhiễm vi-rút do vi-rút Ebola và vi-rút hợp bào hô hấp gây ra.

Mabs cho SARS-CoV-2 gắn kết với một vị trí cụ thể trên vùng gắn kết thụ thể ACE2 (RBD) của protein gai trên bề mặt của vi-rút SARS-CoV-2, do đó cạnh tranh với thụ thể ACE2 trên bề mặt của tế bào vật chủ và ngăn không cho vi-rút xâm nhập vào tế bào vật chủ.

Do thời gian bán hủy dài của hầu hết các Mab (khoảng 3 tuần), một lần truyền duy nhất được cho là đủ. Mabs có khả năng được sử dụng cho cả việc phòng ngừa trên những người đã tiếp xúc với những người bị COVID-19 và điều trị nhiễm trùng ở những người đang trong giai đoạn sớm nhất của COVID-19, trước khi họ có đáp ứng miễn dịch hiệu quả. Mabs cũng có thể được sử dụng để bảo vệ những người cao tuổi và những người có các tình trạng bệnh nền kèm theo, họ có thể không có đáp ứng bảo vệ mạnh mẽ sau khi tiêm chủng. Các kháng thể đơn dòng được sử dụng cho cư dân ở viện dưỡng lão trong thời gian bùng phát dịch có thể hạn chế sự lây lan của bệnh.

NIH COVID-19 Treatment Guidelines Panel (Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH) cho rằng dữ liệu không đủ để khuyến cáo hay phản đối việc sử dụng bamlanivimab hoặc casirivimab cộng với imdevimab để điều trị cho bệnh nhân ngoại trú bị COVID-19 từ mức độ nhẹ đến mức độ trung bình. Hiện tại cũng không có dữ liệu so sánh để xác định liệu có sự khác biệt về hiệu quả lâm sàng hoặc độ an toàn giữa bamlanivimab và casirivimab cộng với imdevimab hay không (4, 5). EUA giới hạn việc sử dụng Mabs này cho bệnh nhân ngoại trú bị COVID-19. Bệnh nhân nằm viện vì COVID-19 không nên dùng bamlanivimab hoặc casirivimab cộng với imdevimab ngoài thử nghiệm lâm sàng.

Huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục

Huyết tương của những người đã hồi phục sau khi bị COVID-19 thường có các kháng thể được cho là có khả năng trung hòa vi-rút SARS-CoV-2.

Một thử nghiệm lâm sàng chọn ngẫu nhiên, nhãn mở (6) so sánh huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục với hiệu giá kháng thể của thụ thể gai SARS-CoV-2 lớn hơn hoặc bằng 1:640 với điều trị tiêu chuẩn trên 103 bệnh nhân nằm viện bị COVID-19 nặng hoặc đe dọa tính mạng ở 7 trung tâm y tế ở Vũ Hán, Trung Quốc. Nghiên cứu, bị kết thúc sớm do kiểm soát được đợt bùng phát dịch COVID-19 ở Vũ Hán, không thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm theo kết quả điều trị ban đầu về thời gian cải thiện lâm sàng trong vòng 28 ngày. Tuy nhiên, huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục được cho dùng sau khi khởi phát bệnh khoảng 1 tháng.

Một thử nghiệm nhỏ khác đã báo cáo lợi ích từ huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục với độ pha loãng theo hiệu giá trung hòa lớn hơn 1:320 trên 39 bệnh nhân nằm viện không cần phải đặt nội khí quản so với bệnh nhân đối chứng có bắt cặp theo phương pháp hồi cứu (7). Do đó, FDA đã cho phép sử dụng khẩn cấp huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục trên những bệnh nhân bị nhiễm COVID-19 nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng tức thì nếu bác sĩ của bệnh nhân đó yêu cầu phải dùng Thuốc mới nghiên cứu (Investigational New Drug, IND) cấp cứu của một bệnh nhân (8). Hơn 70.000 bệnh nhân ở Hoa Kỳ đã dùng huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục COVID-19 thông qua “Expanded Access Program” (EAP) (Chương trình Tiếp cận Mở rộng) của Mayo Clinic, một đề cương nhãn mở không bao gồm một nhánh đối chứng chưa được điều trị, chủ yếu được thiết kế để cung cấp cho bệnh nhân người lớn bị COVID-19 nặng hoặc đe dọa tính mạng (nguy kịch) tiếp cận với huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục (9). EAP của Mayo Clinic đã bị ngừng vào ngày 28 tháng Tám năm 2020, khi FDA cho phép sử dụng khẩn cấp huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục.

Trong một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu (được công bố vào tháng Một năm 2021) về một nhóm nhỏ người lớn nằm viện bị COVID-19 trong chương trình EAP của Mayo Clinic được truyền, đối với những người có dữ liệu về nồng độ kháng thể trong dịch truyền huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục và tỷ lệ tử vong trong 30 ngày, truyền huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục với hiệu giá kháng thể cao được cho là có lợi ích hơn so với truyền huyết tương có hiệu giá thấp chỉ trên những bệnh nhân không được thở máy trước khi truyền, đặc biệt là khi cho truyền trong vòng 72 giờ sau khi có chẩn đoán COVID-19: Trong số 3.082 bệnh nhân, trường hợp tử vong trong vòng 30 ngày sau khi truyền huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục xảy ra ở 115 trong số 515 bệnh nhân (22,3%) ở nhóm chuẩn độ cao, 549 trong số 2006 bệnh nhân (27,4%) ở nhóm chuẩn độ trung bình và 166 trong số 561 bệnh nhân (29,6%) ở nhóm chuẩn độ thấp (10). Tuy nhiên, Ủy ban Hướng dẫn điều trị COVID-19 của NIH, được cập nhật lần cuối vào ngày 9 tháng Mười năm 2020, thấy dữ liệu không đủ để khuyến cáo hay phản đối việc sử dụng huyết tương của bệnh nhân đã hồi phục COVID-19 để điều trị COVID-19 (11).

Dựa trên kết quả nghiên cứu lâm sàng từ đề cương tiếp cập mở rộng của Mayo Clinic, cũng như các thử nghiệm khác nhỏ hơn, FDA đã cập nhật giấy phép sử dụng khẩn cấp (EUA) vào ngày 4 tháng Hai năm 2021: chỉ nên sử dụng huyết tương của bệnh nhân hồi phục chuẩn độ cao và chỉ đối với những bệnh nhân nằm viện trong giai đoạn đầu của quá trình diễn biến bệnh và những người bị suy giảm miễn dịch dịch thể không thể tạo ra đủ đáp ứng kháng thể nội sinh. Huyết tương của bệnh nhân hồi phục chuẩn độ thấp không còn được phép sử dụng

Các loại thuốc kháng vi-rút

Remdesivir

Remdesivir là một loại thuốc tương tự nucleoside adenosine được dùng theo đường tĩnh mạch dưới dạng một tiền chất (tiền thuốc), dễ thấm vào tế bào vật chủ hơn (12). Tiền chất này được chuyển đổi trong tế bào vật chủ thành chất chuyển hóa có hoạt tính can thiệp vào enzym RNA polymerase phụ thuộc RNA (một loại enzyme xúc tác quá trình nhân lên của RNA từ khuôn mẫu RNA), từ đó ngăn chặn quá trình nhân lên của vi-rút. Remdesivir, đã được chứng minh là ức chế SARS-CoV-2 trong ống nghiệm và trên các mô hình động vật, là loại thuốc đầu tiên được FDA cho phép sử dụng khẩn cấp trên COVID-19 vào ngày 1 tháng Năm năm 2020. Kết quả của một số thử nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu quả của remdesivir trên COVID-19 đã được công bố trên các tạp chí y khoa có bình duyệt.

Thử nghiệm lâm sàng đầu tiên trong số các thử nghiệm lâm sàng này đã được công bố trên tạp chí The Lancet ngày 16 tháng Năm năm 2020 (13). Thử nghiệm lâm sàng chọn ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược này trên người lớn nằm viện ở Vũ Hán, Trung Quốc bị bệnh viêm phổi nặng do COVID-19 và giảm oxy máu trong khi thở không khí trong phòng đã bị dừng trước khi đạt được cỡ mẫu đã xác định trước do đợt bùng phát dịch COVID-19 ở Trung Quốc đã nằm trong tầm kiểm soát. Không có lợi ích có ý nghĩa thống kê nào được quan sát thấy khi điều trị bằng remdesivir (200 mg đường tĩnh mạch (IV) vào ngày 1, sau đó là 100 mg vào ngày 2 đến ngày 10 khi truyền một lần mỗi ngày ở 150 bệnh nhân) vượt quá điều trị theo điều trị tiêu chuẩn ở 76 bệnh nhân. Tuy nhiên, tiêu chí đánh giá chính về thời gian đến khi có cải thiện lâm sàng ở nhóm dùng remdesivir ngắn hơn về mặt số lượng so với nhóm đối chứng, đặc biệt là trên những bệnh nhân được điều trị trong vòng 10 ngày kể từ khi khởi phát triệu chứng. Thời gian thở máy xâm nhập, mặc dù không có khác biệt đáng kể giữa các nhóm, ở những người dùng remdesivir về số lượng cũng ngắn hơn so với nhóm đối chứng. Các nhà nghiên cứu đề xuất rằng các nghiên cứu trong tương lai cần phải bao gồm điều trị sớm hơn, các phác đồ liều lượng cao hơn của remdesivir và phối hợp remdesivir với các loại thuốc kháng vi-rút khác hoặc với các kháng thể trung hòa SARS-CoV-2 trên những bệnh nhân bị COVID-19 nặng để hiểu rõ hơn về hiệu quả tiềm năng của remdesivir.

Nghiên cứu tiếp theo, được thực hiện tại nhiều cơ sở nghiên cứu quốc tế, cũng là một thử nghiệm lâm sàng chọn ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược về remdesivir (liều tấn công 200 mg đường tĩnh mạch vào ngày 1, sau đó là 100 mg mỗi ngày trong tối đa là 9 ngày bổ sung); nghiên cứu này được đăng trên tạp chí New England Journal of Medicine ngày 22 tháng Năm năm 2020 (14). Thử nghiệm này được thực hiện trên người lớn nằm viện bị COVID-19 và bệnh liên quan đến đường hô hấp dưới, 538 bệnh nhân dùng remdesivir hồi phục nhanh hơn 4 ngày (11 ngày) so với 521 bệnh nhân dùng giả dược (15 ngày; P < 0,001). Việc phục hồi chỉ được xác định bằng xuất viện hoặc nằm viện vì các mục đích kiểm soát nhiễm trùng. Thời gian đến khi hồi phục ngắn hơn khiến cho ban giám sát dữ liệu và an toàn khuyến cáo sớm giải mù dữ liệu cho các thành viên trong nhóm nghiên cứu của Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia (National Institute of Allergy and Infectious Diseases) vì những lợi ích lâm sàng tiềm năng của việc này. Thời gian hồi phục ngắn hơn rõ ràng nhất trên những bệnh nhân mắc bệnh ở mức độ trung bình (dùng oxy lưu lượng thấp). Không thấy lợi ích trên những bệnh nhân mắc bệnh nặng hơn, tức là những bệnh nhân cần phải thở oxy lưu lượng cao hoặc thông khí không xâm lấn, thở máy hoặc ECMO khi thu nhận vào nghiên cứu, nhưng nghiên cứu không có khả năng phát hiện sự khác biệt trong các phân nhóm. Thời gian trung vị để hồi phục trên những người không cần phải bổ sung oxy ở nhóm remdesivir (5 ngày) và giả dược (6 ngày) là như nhau. Về tỷ lệ tử vong ở thời điểm 14 ngày, 7,1% số bệnh nhân dùng remdesivir tử vong và 11,9% số bệnh nhân dùng giả dược tử vong, một sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, một phân tích tiếp theo dựa trên dữ liệu bổ sung cho thấy tỷ lệ tử vong giảm đáng kể là 62% (tỷ lệ tử vong 7,6% vào ngày 14 đối với bệnh nhân được điều trị bằng remdesivir so với 12,5% ở nhóm đối chứng; P < 0,001–15).

Một nghiên cứu khác so sánh kết quả điều trị trong 5 ngày (200 bệnh nhân) so với 10 ngày (197 bệnh nhân) điều trị bằng remdesivir trên những bệnh nhân nằm viện bị COVID-19 có bằng chứng trên X-quang là viêm phổi và bị giảm oxy máu khi thở không khí trong phòng nhưng không cần phải thở máy hoặc ECMO (16). Tuy nhiên, nhóm điều trị 10 ngày có mức độ bệnh nặng lớn hơn ở lần khám ban đầu so với nhóm điều trị 5 ngày; bệnh nhân đã thở máy trước khi bắt đầu điều trị trong nhóm 10 ngày nhiều hơn so với trong nhóm 5 ngày. Sau khi điều chỉnh tình trạng lâm sàng ở lần khám ban đầu, mức độ cải thiện trên lâm sàng xảy ra vào ngày thứ 14 ở 64% số bệnh nhân trong nhóm 5 ngày và 54% số bệnh nhân trong nhóm 10 ngày.

Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH cho biết không có đủ dữ liệu về việc sử dụng hoặc chống lại việc sử dụng remdesivir trên những bệnh nhân nằm viện không cần phải bổ sung oxy, nhưng cho biết rằng việc sử dụng có thể phù hợp nếu những bệnh nhân này có nguy cơ cao bị tiến triển bệnh (1). Ủy ban của NIH này khuyến cáo chỉ sử dụng remdesivir đơn trị liệu trên những bệnh nhân COVID-19 nằm viện cần phải có oxy bổ sung tối thiểu (ví dụ như qua ống thông mũi). Nếu những bệnh nhân này cần phải có lượng oxy ngày càng tăng và đối với những bệnh nhân cần phải có oxy qua thiết bị lưu lượng cao hoặc thông khí không xâm lấn, thì nên dùng remdesivir cộng với dexamethasone (1). Trên những bệnh nhân nằm viện cần thở máy xâm nhập hoặc ECMO, nên dùng một mình dexamethasone, nhưng remdesivir cộng với dexamethasone có thể được cân nhắc cho những bệnh nhân mới được đặt nội khí quản (1).

Thời gian khuyến cáo điều trị bằng remdesivir cho những bệnh nhân không cần phải thở máy xâm nhập và/hoặc ECMO là 5 ngày; nếu bệnh nhân không cho thấy có cải thiện lâm sàng, thì điều trị có thể được kéo dài đến 10 ngày (1, 17). Tổng thời gian điều trị khuyến cáo cho bệnh nhân cần phải thở máy xâm nhập và/hoặc ECMO là 10 ngày (1).

Một thử nghiệm lâm sàng chọn ngẫu nhiên, đối chứng giả dược hiện đang đánh giá phiên bản remdesivir dạng hít, khí dung trên người lớn từ 18 đến 45 tuổi ở Hoa Kỳ để điều trị COVID-19 trên cơ sở điều trị ngoại trú khi nhiễm bệnh ở giai đoạn đầu, bằng cách đó đã loại bỏ tiến triển sang giai đoạn nặng hơn cần phải nằm viện. Công thức bào chế remdesivir dạng hít cũng sẽ phân phối thuốc trực tiếp đến các vị trí nhiễm SARS-CoV-2 chính ở đường hô hấp trên và dưới (18). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong thử nghiệm lâm sàng trước đây, remdesivir đường tĩnh mạch không rút ngắn thời gian hồi phục trên những bệnh nhân không cần phải có oxy bổ sung. Trên những bệnh nhân này, thời gian hồi phục ở nhóm remdesivir (5 ngày) và nhóm giả dược (6 ngày) là như nhau. Do đó, không rõ việc remdesivir khí dung sẽ có tác dụng trong trường hợp nhiễm bệnh ở giai đoạn rất sớm hay không.

Các thuốc kháng vi-rút khác

Favipiravir

Là một chất tương tự nucleoside guanosine ức chế chọn lọc RNA polymerase phụ thuộc RNA. Đó là một tiền chất được chuyển hóa trong tế bào vật chủ thành triphosphat hoạt động có tác dụng ức chế quá trình nhân lên của vi-rút. Thuốc có sẵn dưới dạng dùng theo đường uống và theo đường tĩnh mạch và được phê chuẩn để điều trị cúm ở Nhật Bản. Thuốc đang được lưu hành để điều trị COVID-19 ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nga và đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng ở Hoa Kỳ. Có một loại thuốc kháng vi-rút đường uống, như favipiravir, có thể cho phép điều trị ngoại trú ở giai đoạn đầu khi bệnh không nặng đến mức cần phải nằm viện nếu các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, chọn ngẫu nhiên cho thấy hiệu quả.

Ivermectin

Một loại thuốc được sử dụng để điều trị một số bệnh nhiễm ký sinh trùng (bao gồm cả bệnh mù lòa đường sông hay là bệnh giun chỉ onchocerca, bệnh giun sán và ghẻ), đã được chứng minh là có hoạt tính kháng vi-rút phổ rộng in vitro, ức chế sự nhân lên của SARS-CoV-2, sốt xuất huyết, Zika, HIV và sốt vàng da trong nuôi cấy tế bào. Tuy nhiên, các nghiên cứu dược động học và dược lực học cho thấy rằng để đạt được nồng độ huyết tương cần thiết cho hoạt tính kháng vi-rút SARS-CoV-2 sẽ cần phải sử dụng liều cao hơn gấp 100 lần so với liều được phép sử dụng ở người. Ivermectin chưa được phê duyệt để điều trị bất kỳ bệnh nhiễm vi-rút nào, bao gồm cả nhiễm SARS-CoV-2. Bởi vì các thử nghiệm lâm sàng chọn ngẫu nhiên và các nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu về việc sử dụng ivermectin trên bệnh nhân bị COVID-19 đã được công bố có những hạn chế đáng kể về phương pháp luận, Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH khuyến cáo không nên sử dụng ivermectin để điều trị COVID-19, ngoại trừ trong một thử nghiệm lâm sàng (19). FDA đã đưa ra cảnh báo vào tháng Tư năm 2020 rằng không nên sử dụng ivermectin dùng để sử dụng cho động vật để điều trị COVID-19 ở người (20).

Lopinavir và ritonavir

Một dạng phối hợp đã được phê duyệt để điều trị HIV/AIDS, đã được chứng minh là có thể ức chế quá trình nhân lên của SARS-CoV-2 trong ống nghiệm, nhưng nồng độ thuốc trong huyết tương đạt được khi sử dụng các liều thông thường của lopinavir/ritonavir thấp hơn nhiều so với nồng độ có thể cần để ức chế quá trình nhân lên của SARS-CoV-2 (21) và phối hợp của thuốc này đã thất bại trong các thử nghiệm lâm sàng (22). Tương tự như vậy, darunavir/cobicistat, một dạng phối hợp khác đã được phê duyệt để điều trị HIV/AIDS, không có hiệu quả để điều trị COVID-19 (23). Vào đầu tháng Bảy, Tổ chức Y tế Thế giới đã đình chỉ thử nghiệm lopinavir/ritonavir trên những bệnh nhân nằm viện vì COVID-19. Các hướng dẫn điều trị COVID-19 của NIH khuyến cáo không nên sử dụng lopinavir/ritonavir hoặc các thuốc ức chế protease HIV khác để điều trị COVID-19, ngoại trừ trong một thử nghiệm lâm sàng (24).

Chloroquine

Là một phiên bản ít độc hơn, hydroxychloroquine (HCQ), có thể ức chế SARS-CoV-2 nhân lên trong các tế bào trong ống nghiệm, nhưng HCQ không thể ngăn ngừa được quá trình nhiễm bệnh ở khỉ và HCQ đơn trị liệu hoặc dạng phối hợp với azithromycin, đều không thể điều trị được cho những con khỉ bị nhiễm bệnh (25). HCQ cũng thất bại trong một thử nghiệm lâm sàng chọn ngẫu nhiên để điều trị COVID-19 giai đoạn sớm trên bệnh nhân ngoại trú (26) và thất bại trong điều trị COVID-19 trên bệnh nhân nằm viện (27); cũng đã thấy là thuốc này có hại trên những bệnh nhân này (28).

Tổ chức Y tế Thế giới (29) và NIH (30) đã tạm dừng các thử nghiệm về HCQ dưới dạng một phương pháp điều trị COVID-19. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) Hoa Kỳ đã thu hồi các phê duyệt khẩn cấp đối với cả chloroquine và HCQ, cảnh báo rằng các loại thuốc này có thể gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng cho tim và các cơ quan khác khi được sử dụng để điều trị COVID-19 (31). Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH khuyến cáo không nên sử dụng chloroquine hoặc HCQ kèm theo hoặc không kèm theo azithromycin để điều trị COVID-19 trên cả bệnh nhân không nằm viện và nằm viện, ngoại trừ trong một thử nghiệm lâm sàng và Ủy ban này khuyến cáo không nên sử dụng chloroquine liều cao (600 mg x 2 lần/ngày trong 10 ngày) để điều trị COVID-19 (32).

Men chuyển angiotensin tái tổ hợp 2 (ACE2)

Protein ACE2 tái tổ hợp, hòa tan, ở người được tạo ra trong phòng thí nghiệm có thể gắn kết với SARS-CoV-2 trước khi vi-rút này có thể gắn vào protein ACE2 gắn kết tế bào vật chủ, làm giảm số lượng vi-rút có sẵn lây nhiễm cho các tế bào vật chủ dễ bị tổn thương. ACE2 tái tổ hợp, hòa tan, ở người đã được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 và giai đoạn 2 trên hội chứng suy hô hấp cấp (33, 34) và có thể ức chế sự lây nhiễm SARS-CoV-2 của tế bào người, cũng như các “hạt cơ quan” trong mạch máu và thận in vitro (35). Mặc dù ACE2 hòa tan, tái tổ hợp, ở người chưa được thử nghiệm trên các mô hình động vật, nhưng bệnh nhân đầu tiên bị COVID-19 thể nặng đã được báo cáo là đã được điều trị “thành công” bằng ACE2 hòa tan, tái tổ hợp, ở người (36).

Thuốc điều biến miễn dịch.

Nhóm thuốc corticosteroid

Bs. Lane và Fauci chỉ ra trong một bài xã luận trên tạp chí New England Journal of Medicine rằng một loại thuốc ức chế miễn dịch, chẳng hạn như dexamethasone, hoặc các thuốc điều biến miễn dịch khác có thể hiệu quả hơn ở giai đoạn sau của quá trình nhiễm SARS-CoV-2, khi tải lượng vi-rút đã giảm và các đáp ứng miễn dịch và đáp ứng viêm có thể là nguyên nhân chính gây ra bệnh (37).

Vào giữa tháng Sáu năm 2020, một tác dụng có lợi đã được báo cáo đối với liệu trình 6 ngày dùng methylprednisolone trên 56 người lớn bị viêm phổi COVID-19 có giảm oxy máu và bằng chứng sinh hóa về viêm tăng (38). Một tháng sau, một nghiên cứu lớn hơn nhiều từ Đánh giá chọn ngẫu nhiên liệu pháp COVID-19 (Randomised Evaluation of COVID-19 Therapy, RECOVERY) của nhóm cộng tác tại Oxford University đã được công bố trên tạp chí New England Journal of Medicine. Trong nghiên cứu này, các bệnh nhân người Anh nằm viện bị COVID-19 được phân nhóm ngẫu nhiên dùng dexamethasone đường uống hoặc đường tĩnh mạch, 6 mg/ngày trong tối đa 10 ngày (2.104 bệnh nhân) hoặc chăm sóc thông thường (4.321 bệnh nhân – 39). Tác dụng có lợi của dexamethasone xảy ra ở nhóm thở máy xâm nhập (tỷ lệ tử vong là 29,3% so với 41,4%) và ở nhóm thở oxy mà không có thở máy xâm nhập (23,3% so với 26,2%), nhưng không xảy ra ở nhóm không được hỗ trợ hô hấp ở thời điểm phân nhóm ngẫu nhiên (17,8% so với 14,0%). Việc sử dụng dexamethasone đơn độc đã được xác nhận bởi Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH trong 10 ngày hoặc cho đến khi xuất viện để điều trị COVID-19 trên những bệnh nhân nằm viện cần phải thở máy hoặc ECMO (1). Dexamethasone phối hợp với remdesivir được khuyến cáo cho những bệnh nhân nằm viện đang dùng lượng oxy bổ sung tối thiểu, những người này cần phải có lượng oxy bổ sung ngày càng nhiều qua đường mũi, cung cấp oxy qua thiết bị lưu lượng cao hoặc thông khí không xâm lấn và có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân mới được đặt nội khí quản (1).

Nếu không có dexamethasone, có thể sử dụng glucocorticoid thay thế như là prednisone, methylprednisolone hoặc hydrocortisone. Ủy ban này khuyến cáo không nên sử dụng dexamethasone cho những bệnh nhân COVID-19 không nằm viện hoặc đang nằm viện nhưng không cần có oxy bổ sung.

Interferon

Interferon là một họ cytokine có đặc tính kháng vi-rút. Trong một thử nghiệm mù đôi, có đối chứng với giả dược, interferon beta-1a dạng hít đã thấy có lợi trên những bệnh nhân nằm viện bị COVID-19 không có thông khí (40) và một thử nghiệm lâm sàng chọn ngẫu nhiên, nhãn mở không thấy interferon beta-1a tiêm dưới da có lợi trên những bệnh nhân bị COVID-19 nặng (41). Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH khuyến cáo không nên sử dụng interferon để điều trị bệnh nhân bị COVID-19 nặng hoặc nguy kịch, ngoại trừ trong một thử nghiệm lâm sàng (42).

Thuốc ức chế cytokine

Các cytokine là các protein do một số tế bào nhất định tạo ra để báo hiệu một đáp ứng miễn dịch phối hợp với nhiễm trùng, viêm và chấn thương. Nhiễm SARS-CoV-2 có thể gây ra đáp ứng viêm tăng (ví dụ: D-dimer gấp > 10 lần giá trị bình thường, protein phản ứng C (CRP) gấp > 10 lần giá trị bình thường và/hoặc ferritin ≥ 1000 ng/ml), với nồng độ cytokine tiền viêm trong huyết thanh cao (ví dụ: interferon gamma [IFNγ], yếu tố hoại tử khối u alpha [TNFα], interleukin 1 beta [IL-1β] và interleukin 6 [IL-6]), tất cả đều có liên quan đến mức độ nặng của bệnh và tử vong. Một số loại thuốc nhắm đích cytokine, bao gồm siltuximab, tocilizumab, sarilumab, anakinra, thuốc ức chế Janus kinase (JAK) (ví dụ: baricitinib) và thuốc ức chế Bruton’s tyrosine kinase (BTK), đã được đề xuất để điều trị COVID-19.

Siltuximab là một kháng thể đơn dòng thể khảm người-chuột tái tổ hợp gắn kết với IL-6, ngăn chặn sự gắn kết của IL-6 với các thụ thể IL-6. Tocilizumab và sarilumab là các kháng thể đơn dòng từ người tái tổ hợp nhắm đích thụ thể interleukin-6 (IL-6R), ngăn không cho IL-6 phát huy tác dụng tiền viêm nó. Anakinra là phiên bản tái tổ hợp và được sửa đổi một chút của thuốc đối kháng thụ thể interleukin 1 ở người (IL-1Ra). Anakinra ngăn chặn hoạt tính sinh học của IL-1 bằng cách ức chế cạnh tranh không cho IL-1 gắn kết với thụ thể interleukin-1 tuýp I. Baricitinib, một thuốc ức chế Janus kinase (JAK), chặn đường truyền tín hiệu nội bào cho các cytokine tiền viêm. Thuốc ức chế tyrosine kinase Bruton (BTK) ngăn chặn tín hiệu cytokine thông qua các thụ thể bề mặt tế bào B cần thiết cho việc vận chuyển, điều hòa hóa học và kết dính tế bào B.

Tocilizumab

Một thông cáo báo chí vào ngày 11 tháng Hai năm 2021, báo cáo kết quả sơ bộ của thử nghiệm Đánh giá chọn ngẫu nhiên liệu pháp COVID-19 (RECOVERY), trong đó hơn 4.000 bệnh nhân nằm viện bị COVID-19 nặng (cần phải có oxy và có bằng chứng viêm) được chọn ngẫu nhiên để dùng tocilizumab hoặc chăm sóc thông thường (82% số bệnh nhân ở cả hai nhóm cũng được điều trị bằng corticosteroid đường toàn thân, chẳng hạn như dexamethasone—43). Thử nghiệm RECOVERY này cho thấy rằng tocilizumab có một chút lợi ích về tỷ lệ tử vong, nhưng có ý nghĩa thống kê khi phối hợp với corticosteroid; 29% số bệnh nhân được điều trị bằng tocilizumab bị tử vong trong vòng 28 ngày so với 33% số bệnh nhân được điều trị bằng cách chăm sóc thông thường (P = 0,007). Tocilizumab làm giảm nguy cơ tiến triển sang thở máy xâm nhập từ 38% xuống 33% (P = 0·0005) và rút ngắn thời gian đến khi xuất viện. Những lợi ích này xảy ra ở tất cả các phân nhóm bệnh nhân, bao gồm cả những người cần phải thở oxy qua mặt nạ cho đến những người cần phải thở máy. Tuy nhiên, tocilizumab không làm giảm thời gian thở máy xâm nhập. Có rất ít dữ liệu được công bố mô tả hiệu quả của siltuximab, sarilumab và anakinra trên những bệnh nhân bị COVID-19. Ủy ban của NIH này, ngày 27 tháng Tám năm 2020, trước khi công bố kết quả của thử nghiệm tocilizumab RECOVERY, khuyến cáo không nên sử dụng kháng thể đơn dòng kháng thụ thể IL-6 (ví dụ như sarilumab, tocilizumab) hoặc kháng thể đơn dòng kháng IL-6 (siltuximab) để điều trị COVID-19, ngoại trừ trong một thử nghiệm lâm sàng (44) và Ủy ban của NIH này cho biết dữ liệu không đủ để khuyến cáo hay phản đối việc sử dụng thuốc ức chế interleukin (IL) -1, chẳng hạn như anakinra, để điều trị COVID-19 (45).

Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH khuyến cáo không nên sử dụng các thuốc ức chế Bruton’s tyrosine kinase (BTK), chẳng hạn như acalabrutinib, ibrutinib và zanubrutinib; và các thuốc ức chế Janus kinase (JAK), chẳng hạn như ruxolitinib và tofacitinib; để điều trị COVID-19, ngoại trừ trong một thử nghiệm lâm sàng (46).

Baricitinib

Trong một thử nghiệm lâm sàng chọn ngẫu nhiên, có đối chứng, trong đó bệnh nhân nằm viện bị COVID-19 và có bằng chứng viêm phổi đã dùng baricitinib, thuốc ức chế JAK hoặc giả dược (với cả hai nhóm dùng remdesivir), dạng phối hợp của baricitinib và remdesivir có liên quan đến thời gian phục hồi ngắn hơn, cũng như cải thiện tình trạng lâm sàng nhanh hơn, so với nhóm dùng giả dược, đặc biệt là trong số những người được thở oxy lưu lượng cao hoặc thông khí không xâm lấn (47). Baricitinib đã được cấp Giấy phép Sử dụng Khẩn cấp (EUA) cho dạng phối hợp baricitinib với remdesivir trên người lớn và trẻ em từ ≥ 2 tuổi nằm viện bị COVID-19 cần phải có oxy bổ sung, thở máy xâm lấn hoặc trao đổi oxy qua màng ngoài cơ thể (ECMO), một chỉ định tương tự như của corticosteroid +/- remdesivir. Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH cho rằng dữ liệu không đủ để khuyến cáo hay phản đối việc sử dụng baricitinib phối hợp với remdesivir trong những trường hợp có thể sử dụng corticosteroid thay thế. Trong những trường hợp hiếm hoi không thể sử dụng corticosteroid thay thế, Ủy ban của NIH này khuyến cáo sử dụng baricitinib phối hợp với remdesivir để điều trị COVID-19 trên bệnh nhân nằm viện, không đặt nội khí quản, cần phải có oxy bổ sung (48). Ủy ban này khuyến cáo không nên sử dụng baricitinib trong trường hợp không có remdesivir, ngoại trừ trong một thử nghiệm lâm sàng. Không có đủ dữ liệu để Ủy ban này khuyến cáo hay phản đối việc sử dụng baricitinib phối hợp với corticosteroid để điều trị COVID-19. Do cả hai loại thuốc đều là thuốc ức chế miễn dịch mạnh, nên có khả năng tăng nguy cơ nhiễm trùng.

Liệu pháp chống huyết khối trên bệnh nhân COVID-19

Trạng thái tăng đông có thể làm phức tạp diễn biến của COVID-19. Các biến chứng tĩnh mạch bao gồm huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) và thuyên tắc mạch phổi (PE). Các biến chứng ở động mạch bao gồm huyết khối có thể gây đột quỵ do thiếu máu não cục bộ, thiếu máu cục bộ ở chi hoặc nhồi máu cơ tim. Huyết khối vi mạch trong phổi làm suy yếu quá trình trao đổi oxy. Tuổi cao, giới tính là nam, béo phì, ung thư, tiền sử bị thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE), hoặc các bệnh kèm theo trên bệnh nhân COVID-19 nặng có nguy cơ cao hơn bị DVT và PE so với bệnh nhẹ hoặc không có triệu chứng.

Tăng chảy máu là một biến chứng đã biết của thuốc chống đông dùng đủ liều, nên một thử nghiệm lâm sàng lớn, đa quốc gia trên người lớn nằm viện điều trị COVID-19 đã so sánh việc sử dụng đủ liều thuốc chống đông với phác đồ dùng liều thấp hơn như được sử dụng để ngăn ngừa cục máu đông trên bệnh nhân nằm viện. Một nhóm bao gồm những bệnh nhân được chăm sóc tại bệnh viện không thuộc khoa Hồi sức Tích cực và một nhóm khác gồm những bệnh nhân bị bệnh nặng cần có sự chăm sóc ở khoa Hồi sức Tích cực ở thời điểm thu nhận. Mức độ chăm sóc ở khoa Hồi sức Tích cực được xác định là cần phải có oxy qua mũi lưu lượng cao, thở máy xâm lấn hoặc không xâm lấn, liệu pháp vận mạch hoặc hỗ trợ trao đổi oxy qua màng ngoài cơ thể (extracorporeal membrane oxygenation, ECMO).

Vào ngày 21 tháng Mười hai năm 2020, phần thử nghiệm lâm sàng liên quan đến bệnh nhân bị COVID-19 nặng cần phải có cấp độ chăm sóc là ở khoa Hồi sức Tích cực ở thời điểm thu nhận đã bị tạm dừng vì phân tích tạm thời cho thấy rằng liều điều trị cao hơn của thuốc chống đông máu không làm giảm nhu cầu hỗ trợ nội tạng và tỷ lệ tử vong so với chống đông có liều dự phòng thấp hơn (49). Những bệnh nhân không cần phải chăm sóc ở khoa Hồi sức Tích cực tại thời điểm thu nhận tiếp tục được thu nhận vào thử nghiệm.

Vào ngày 22 tháng Một năm 2021, dựa trên kết quả tạm thời của thử nghiệm lâm sàng lớn được tiến hành trên toàn thế giới ở hơn 1.000 bệnh nhân mắc bệnh ở mức độ trung bình, không nằm viện ở khoa Hồi sức Tích cực, liều đầy đủ của heparin, ngoài việc an toàn, còn ưu việt hơn so với liều thông thường được cho dùng để ngăn ngừa cục máu đông trên bệnh nhân nằm viện – liên quan đến giảm yêu cầu hỗ trợ các cơ quan quan trọng, được định nghĩa là số ngày nằm viện không cần phải có oxy qua mũi lưu lượng cao, thở máy xâm lấn hoặc không xâm lấn, liệu pháp vận mạch hoặc hỗ trợ ECMO và tử vong trong bệnh viện (50). Một xu hướng có thể giảm tỷ lệ tử vong cũng đã được quan sát thấy và đang được nghiên cứu thêm.

Ủy ban Hướng dẫn Điều trị COVID-19 của NIH gần đây về liệu pháp chống huyết khối trên bệnh nhân bị COVID-19 cho biết hiện tại không có đủ dữ liệu để khuyến cáo hay phản đối việc sử dụng thuốc làm tan huyết khối hoặc sử dụng liều cao hơn liều dự phòng của thuốc chống đông trong phòng ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch trên bệnh nhân COVID-19 nằm viện ngoài thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, Hướng dẫn của Ủy ban của NIH ra ngày 17 tháng Mười hai năm 2020, trước khi có kết quả tạm thời của các thử nghiệm lâm sàng về liều lượng thuốc chống đông máu tối ưu để làm giảm các biến chứng huyết khối trên những bệnh nhân bị COVID-19 nằm viện không phải ở khoa Hồi sức Tích cực và ở khoa Hồi sức Tích cực (xem ở trên) và các khuyến cáo của họ có thể không phản ánh những phát hiện này (51).

Ủy ban của NIH này cũng khuyến nghị những việc sau:

  • Bất cứ khi nào sử dụng thuốc chống đông hoặc liệu pháp chống kết tập tiểu cầu trên những bệnh nhân COVID-19 nằm viện, bị bệnh nguy kịch, heparin trọng lượng phân tử thấp hoặc heparin không phân đoạn được ưu tiên hơn thuốc chống đông đường uống vì thời gian bán thải ngắn hơn, khả năng dùng theo đường tĩnh mạch hoặc dưới da và ít có tương tác với các thuốc hơn.
  • Đối với những bệnh nhân bị COVID-19 không nằm viện, không nên bắt đầu dùng thuốc chống đông máu và liệu pháp chống kết tập tiểu cầu để phòng ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch hoặc huyết khối động mạch trừ khi bệnh nhân có chỉ định khác để điều trị hoặc đang tham gia thử một nghiệm lâm sàng.
  • Bệnh nhân COVID-19 bị biến cố thuyên tắc huyết khối tắc mạch hoặc nghi ngờ cao là bị bệnh thuyên tắc huyết khối cần phải được xử trí bằng các liều điều trị của liệu pháp chống đông máu theo điều trị tiêu chuẩn dành cho bệnh nhân không bị COVID-19.
  • Bệnh nhân bị COVID-19 cần phải có ECMO hoặc liệu pháp thay thế thận liên tục (CRRT) hoặc có huyết khối của ống thông hoặc bộ lọc ngoài cơ thể cần phải được điều trị theo phác đồ tiêu chuẩn của cơ sở cho bệnh nhân không bị COVID-19.
CategoriesTin tức

Việt Nam điều chế thành công thuốc tiền lâm sàng điều trị Covid-19

Sáng 10-8, tại Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (sau đây gọi tắt là Viện Hàn lâm) tổ chức buổi họp báo trực tuyến công bố kết quả nghiên cứu thuốc điều trị Covid-19.

Thuốc điều trị Covid-19 có tên gọi Vipdervir có nguồn gốc dược liệu, có tác dụng ức chế phát triển virus SARS-CoV-2 khi thử nghiệm trên động vật. Hội đồng Đạo Đức – Bộ Y tế đã thống nhất phê duyệt đề cương nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân Covid-19 đang điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.

Thuốc điều trị Covid-19 Vipdervir do nhóm nghiên cứu, đứng đầu là PGS.TS Lê Quang Huấn của Viện Công nghệ sinh học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) thực hiện.

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm cho thỏ uống hỗn dịch mẫu thử liên tục 28 ngày với hai mức liều là 0,378 viên/kg thỏ/ngày (tương ứng liều tối đa dùng cho người là 6 viên/người/ngày) và 1,133 viên/kg thỏ/ngày (cao gấp 3 lần so với liều dùng tối đa của người). Kết quả, mẫu thử không ảnh hưởng đến cân nặng, thể trạng, vận động của thỏ.

Các chỉ số sinh hóa đánh giá chức năng gan, thận cho thấy, không có bất thường ở nội tạng của thỏ và không thấy tổn thương mô bệnh học của gan, thận và phổi. Kết quả thử nghiệm tiền lâm sàng đã chứng minh tính an toàn của Vipdervir. Ở nồng độ 50 ug/ml thuốc có khả năng ức chế được sự phát triển của nCoV. Ngoài ra, sản phẩm còn có tác dụng tăng cường miễn dịch với các động vật thử nghiệm.

Các nhà khoa học Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam điều chế thành công thuốc điều trị Covid-19 có nguồn gốc từ dược liệu Việt Nam. Ảnh: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cung cấp.
Các nhà khoa học Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam điều chế thành công thuốc điều trị Covid-19 có nguồn gốc từ dược liệu Việt Nam. Ảnh: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cung cấp.

Theo PGS.TS Lê Quang Huấn, nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu của Viện Hàn lâm và các tài liệu Y văn, với công nghệ hiện đại tin sinh học (phần mềm AutoDock), nhóm nghiên cứu đã sàng lọc các hoạt chất chính và xác định tạo được tổ hợp trong các thảo dược có ái lực liên kết mạnh với các đích phân tử liên quan tới quá trình xâm nhập và tăng sinh của virus SARS-CoV-2 nhằm bào chế được thuốc từ dược liệu.

“Chúng tôi lựa chọn thuốc có nguồn gốc dược liệu ở Việt Nam. Nếu sử dụng dược liệu có hoạt tính mạnh nhưng khan hiếm thì khó thực hiện sản xuất đại trà”, PGS.TS Lê Quang Huấn chia sẻ thêm.

Thuốc được đánh giá có khả năng ngăn cản sự bám dính của virus với tế bào chủ, làm mất khả năng xâm nhập của virus vào trong tế bào chủ. Thuốc cũng có khả năng ức chế khả năng nhân lên của virus trong tế bào, nghĩa là đối với những hạt virus đã xâm nhập vào bên trong tế bào chủ cũng sẽ mất khả năng tăng sinh. Thuốc còn có khả năng kích hoạt các tế bào miễn dịch để chúng nhận biết, phong tỏa và loại trừ các hạt virus.

PGS.TS Lê Quang Huấn cho biết, qua thử nghiệm độc tính cấp, độc tính bán trường diễn tại Viện Kiểm nghiệm Thuốc Trung ương và Bộ môn Dược lý tại Đại học Y Hà Nội, đánh giá khả năng ức chế virus H5N1 tại Viện Công nghệ sinh học, ức chế virus SARS-CoV-2 tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương và tăng cường miễn dịch tại Bộ môn Dược lý, Đại học Y Hà Nội, nhóm tác giả đã thử nghiệm trên vật nuôi thỏ.

Kết quả tiền lâm sàng đã chứng minh thuốc Vipdervir an toàn và có tác dụng ức chế phát triển virus H5N1 và virus SARS-CoV-2, thuốc có tác dụng tăng cường miễn dịch khi thử nghiệm trên động vật.

Hiện nay, thuốc điều trị Covid-19 đã được nhóm nghiên cứu xây dựng quy trình tạo viên nén trên cơ sở các thảo dược Việt Nam (đáp ứng tiêu chuẩn Dược điển), đảm bảo khả năng sản xuất kịp thời phục vụ công tác phòng chống Covid-19 hiện nay.

Theo PGS.TS Chu Hoàng Hà, Phó chủ tịch Việt Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đây là thuốc điều trị Covid-19 từ dược liệu Việt Nam đầu tiên được cấp phép thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam. Vipdervir cần tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng để có thể đánh giá hiệu quả điều trị Covid-19 trước khi sử dụng đại trà.

Nguồn: https://www.qdnd.vn/giao-duc-khoa-hoc/tin-tuc/viet-nam-dieu-che-thanh-cong-thuoc-tien-lam-sang-dieu-tri-covid-19-668006